So sánh
- So sánh:
Đoạn văn so sánh có sự đối chiếu để thấy cái giống nhau hoặc khác nhau giữa các đối tượng, các vấn đề,…để từ đó thấy được chân lí của luận điểm hoặc làm nổi bật luận điểm trong đoạn văn. Có hai kiểu so sánh khi viết đoạn văn là: so sánh tương đồng và so sánh tương phản.
So sánh tương đồng: Đoạn văn có sự so sánh tương tự nhau dựa trên một ý tưởng.
VD1:
Ngày trước ông cha ta có câu “Có công mài sắt có ngày nên kim”. Cụ Nguyễn Bá Học, một nho sĩ đầu thế kỉ XX cũng viết: “Đường đi không khó vì ngăn sông cách núi mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Sau này vào những năm bốn mươi giữa bóng tối ngục tù của Tưởng Giới Thạch, nhà thơ Hồ Chí Minh cũng đề cập tới tính kiên nhẫn, chấp nhận gian lao qua bài thơ “Nghe tiếng giã gạo”, trong đó có câu: “Gian nan rèn luyện mới thành công”. Câu thơ thể hiện phẩm chất tốt đẹp, ý chí của Hồ Chí Minh đồng thời còn là châm ngôn rèn luyện cho mỗi chúng ta.
(Lê Bá Hân)
So sánh tương phản: Đoạn văn có sự so sánh trái ngược nhau về nội dung, ý tưởng.
VD2:
Trong cuộc sống không thiếu những người cho rằng cần học tập để thành tài, có tri thức hơn người khác mà không hề nghĩ tới việc rèn luyện đạo đức, lễ nghĩa, vốn là giá trị cao qúy nhất trong các giá trị của loài người. Những người luôn hợm mình, tự cao tự đại, nhiều khi trở thành những kẻ có hại cho xã hội. Đối với những người ấy, chúng ta cần giúp họ hiểu rõ lời dạy của người xưa: “Tiên học lễ, hậu học văn”
(Nguyễn Quang Ninh)
VD3:
Trong cuộc sống, không thiếu những người cho rằng cần học tập để trở thành kẻ có tài, có tri thức giỏi hơn người trước mà không hề nghĩ tới việc rèn luyện đạo đức, lễ nghĩa vốn là giá trị cao quý nhất trong các giá trị của con người( 1). Những người ý luôn hợm mình, không chút khiêm tốn, đôi khi trở thành người vô lễ, có hại cho xã hội(2). Đối với những người ấy, chúng ta cần giúp họ hiểu rõ lời dạy của cổ nhân: “ Tiên học lễ, hậu học văn”( 3).
VD4:
Đoạn văn so sánh tương đồng, nội dung nói về hình ảnh “vầng trăng” trong bài “Ánh trăng” của Nguyễn Duy:
“ Tuổi thơ Nguyễn Duy gắn bó với trăng và cả khi trở thành người lính thì trăng vẫn là người bạn tri kỉ:
“hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thảnh tri kỉ”.(1)
Bằng nghệ thuật nhân hoá, Nguyễn Duy đã khắc hoạ vẻ đẹp tình nghĩa, thuỷ chung của hai người bạn: trăng và người lính, người lính và trăng(2). Cuộc sống trong rừng thời chiến tranh biết bao gian khổ, khó khăn nhưng trăng vẫn đến với người lính bằng một tình cảm chân thành, nồng hậu, không chút ngần ngại(3). Trăng đến toả ánh sáng dịu mát cho giấc ngủ người chiến sĩ “ Gối khuya ngon giấc bên song trăng nhòm” ( Hồ Chí Minh) (4). Trăng đến bên người chiến sĩ cùng chờ giặc tới trong những đên khuya sương muối: “Đầu súng trăng treo” ( Chính Hữu)(5). Ánh trăng cùng với người lính qua biết bao năm tháng gian khổ của đất nước để vượt lên mọi sự tàn phá của quân thù:
“Và vầng trăng, vầng trăng đất nước
Vượt qua quầng lửa, mọc lên cao”. ( Phạm Tiến Duật) (6).
Trăng với người lính trong thơ thật gần gũi và gắn bó (7). Đặc biệt, trong thơ Nguyễn Duy ánh trăng đã trở thành một biểu tượng cao đẹp: “ vầng trăng tri kỉ”, “vầng trăng tình nghĩa” (9).
- Lý thuyết liên quan
Diễn dịch --- Xem chi tiết tại đây.
Quy nạp --- Xem chi tiết tại đây.
Tổng - phân - hợp --- Xem chi tiết tại đây.
Song hành --- Xem chi tiết tại đây.
Móc xích --- Xem chi tiết tại đây.
Kết cấu đòn bẩy, bắc cầu --- Xem chi tiết tại đây.
CÁC HÌNH THỨC LẬP LUẬN CỦA ĐOẠN VĂN --- Xem chi tiết tại đây.
